Thứ Ba, 24 tháng 1, 2023

 

Cao Đài Ban Chỉnh Đạo

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

Vào đầu thế kỷ XX, (năm Bính Dần 1926), đạo Cao đài được khai sáng tại Việt Nam với tên gọi là Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, thực hiện tôn chỉ “Qui nguyên Tam giáo - Hiệp nhứt ngũ chi”, thực hành chủ nghĩa thương yêu để thống nhất tinh thần tín ngưỡng của nhơn loại, coi tất cả chúng sanh đều là anh em ruột thịt, con chung một Đấng Cha Trời mà độ dẫn nhơn sanh tu hành, làm lành lánh dữ, biết lo cư xử cho tròn nhơn đạo, xây dựng thế giới hoà bình, đại đồng tuyệt khổ.

         Năm 1934, khi đạo Cao đài trong cơ khảo thí, hai vị chức sắc cao cấp là Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương và Đầu sư Lê Bá Trang cùng đông đảo chức sắc, tín đồ đã dời Toà thánh Tây Ninh về Bến Tre sáng lập Cao đài Ban Chỉnh đạo để thực hiện việc chỉnh đốn nền Đại đạo theo đúng Tân luật, Pháp Chánh truyền, bảo thủ chơn truyền của đạo Cao đài.

Một năm sau tại Hội Vạn linh được tổ chức ở thánh thất An Hội - Bến Tre (năm 1935), toàn thể chức sắc, chức việc và phái viên nhơn sanh đã bỏ thăm bầu Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương làm Giáo tông và Đầu sư Lê Bá Trang làm Chưởng pháp Hội thánh Cao đài Ban Chỉnh đạo. Như vậy, Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương là vị Giáo tông đầu tiên trong nền Đại đạo Tam kỳ Phổ độ được Hội Vạn linh bầu lên theo Pháp Chánh truyền. Với phương châm hành đạo chơn chánh, và đường hướng tu hành thuần tuý đạo đức, trong sáng, Cao đài Ban Chỉnh đạo dưới sự dìu dắt của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương và Chưởng pháp Lê Bá Trang đã thu hút đông đảo các thánh thất trong nền Đại đạo tham gia (96 thánh thất trên tổng số 135 thánh thất Cao đài lúc bấy giờ). Tại Bến Tre, Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương thi hành lệnh của Đức Chí Tôn năm 1927 đã ngưng sử dụng cơ bút trong toàn đạo từ Trung ương Hội thánh đến Họ đạo cơ sở, mọi công việc quan trọng của đạo đều do Hội nghị Hội thánh quyết định. Hội thánh Cao đài Ban Chỉnh đạo chủ trương việc mở mang phước điền làm ruộng tập thể ở mỗi họ đạo và Trung ương để bổn đạo chung sức canh tác làm nguồn sống cho chức sắc hành đạo và người tu có công việc làm tự nuôi được bản thân. Trên cơ sở của đạo pháp, Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương đã kế thừa và phát triển hình thức tu hành theo phương tu Tam thừa Cửu phẩm.

 Pháp tu tam thừa của Hội thánh Cao đài Ban Chỉnh đạo gồm 3 bậc: Hạ thừa - Trung thừa - Thượng thừa.Người tu bậc Hạ thừa lấy gia đình làm nền tảng tu thân, thực hiện Tứ đại điều quy, Ngũ giới cấm, Ngũ thường, Tứ đức... căn cứ Thế luật mà hành đạo, giữ lục trai (6 ngày chay) trở lên; Người tu bậc Trung thừa hiến thân nửa đời, nửa đạo; lấy Nhà tu Trung thừa ở Toà thánh hoặc Nhà tu Trung thừa ở các họ đạo để thực hiện Chơn truyền đạo, giữ thập trai (10 ngày chay) trở lên, riêng Lễ sanh giữ Thiên ngươn (16 ngày chay) trở lên; Người tu bậc Thượng thừa hiến thân trọn đời hành đạo phụng sự nhơn sanh, lấy Nhà tu Thượng thừa ở Toà thánh để thừa hành Tân pháp, tu giải thoát theo "Thập đẳng cấp thiêng liêng", giữ trường chay.

 Cửu phẩm Thần Tiên là chín bậc trong quá trình hành đạo tu tiến gồm: Tín đồ (Địa Thần); Chức việc (Nhơn Thần); Lễ sanh (Thiên Thần); Giáo hữu (Địa Thánh); Giáo sư (Nhơn Thánh); Phối sư (Thiên Thánh); Đầu sư (Địa Tiên); Chưởng pháp (Nhơn Tiên); Giáo tông (Thiên Tiên).     

Lập trường tu hành của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương là không tham gia chính trị nhưng với tinh thần trách nhiệm của người công dân với Tổ quốc, với dân tộc, ông đã thể hiện bằng việc ngầm phong chức cho chức sắc, tín đồ của Hội thánh có tư tưởng yêu nước và bãi nhiệm những chức sắc có tư tưởng thân giặc. Hai người con trai của ông đều trở thành cán bộ cách mạng tham gia kháng chiến cứu nước. Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích, Khu bộ phó Khu 9 và kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt, ủy viên Uỷ ban kháng chiến hành chánh Nam bộ, Phó Chủ tịch Cao đài Cứu quốc 12 phái hiệp nhất. Được sự ủng hộ của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương nên đông đảo chức sắc, tín đồ của Hội thánh Cao đài Ban Chỉnh đạo đã tích cực tham gia kháng chiến cứu quốc. Trước kế hoạch gom dân lập ấp của chính quyền xâm lược, Hội thánh Cao đài Ban Chỉnh đạo chủ trương không di chuyển, mà kêu gọi các thánh thất giữ gìn cơ sở và kiên trì sinh hoạt tôn giáo để đồng bào cóđiều kiện ở lại đấu tranh. Nếu thánh thất bị đánh phá thì đấu tranh đòi tôn trọng cơ sở tôn giáo, đòi bồi thường. Hội thánh thường xuyên cử chức sắc về các vùng bị giặc bắn phá tàn sát, động viên củng cố tinh thần và vận động toàn đạo cứu trợ lương thực, thuốc men, tiền bạc. Đặc biệt năm 1963, hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Cục và Mặt trận Giải phóng khu Trung Trung Bộ, Hội thánh cứu trợ 13 tấn gạo và một số muối đến tận chân núi Trường Sơn (tỉnh Quảng Ngãi). Hội thánh còn vận động chức sắc, tín đồ tham gia phong trào chống dồn quân bắt lính, thâu nhận thanh niên vào thánh thất, nhà tu, tổ chức đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng, người tu không cầm súng. Kết quả vận động được trên 16.000 thanh niên không đi lính cho giặc. Ngoài ra, còn gần 300 thanh niên có đạo dù bị giặc hành hạ, o ép ở các nhà lao Quân Lao, Trung tâm Cải huấn vẫn thể hiện tinh thần cương quyết phản đối chiến tranh, chống lệnh thi hành quân dịch của chế độ Sài Gòn.

Hội thánh Ban Chỉnh đạo còn mở hàng trăm nhà tu Trung thừa ở Hội thánh và họ đạo để cho những gia đình nghèo cũng có thể vào tu. Ở đây, nữ giới được học nghề nữ công, mỹ nghệ, nam giới thì làm ruộng làm vườn, làm rẫy, làm thợ hồ, thợ mộc… Hội thánh đã xây dựng được nếp sống mới đoàn kết thương yêu, tương thân hòa ái cho mọi người tu hành có việc làm, có cơm ăn. Đồng thời còn mở trường dạy chữ và trường dạy Hạnh đường cho người đạo.

 Đức Chí Tôn khai đạo Cao đài để giải khổ cho chúng sanh, Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương phụng thừa sứ mạng thiêng liêng cầm dìu mối đạo Ban chỉnh để giữ gìn và thực hành chơn truyền Tân pháp của nền Đại đạo. Đường lối hành đạo của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương được Hội thánh tổng kết qua năm đặc điểm: Đức tin nơi Thầy, nơi đạo; cả đời hi sinh, xả thân hành đạo; Có tình thương yêu, từ bi - bác ái tràn trề từ người đến vật; cuộc đời tu hành thuần tuý đạo đức; Tích cực làm công quả âm chất mới bảo đảm cho sự tịnh luyện được thành công.

 Có thể nói, dưới sự lãnh đạo của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, Cao đài Ban Chỉnh đạo có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, ủng hộ cách mạng và tích cực tham gia kháng chiến. Qua hai cuộc kháng chiến cứu nước, Hội thánh Cao đài Ban Chỉnh được Chính phủ trao tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì vì có thành tích: "Đã giữ vững thái độ trung thành với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vận động được đông đảo tín đồ tham gia kháng chiến cứu nước".

         Tiếp nối truyền thống quí báu đó, trong thời kỳ xây dựng bảo vệ Tổ quốc từ Đại hội Nhơn sanh lần thứ nhất (1997) đến nay, Hội thánh Cao đài Ban Chỉnh đạo phát huy tinh thần yêu nước vận động được đông đảo chức sắc, tín đồ tham gia các phong trào thi đua, cũng như các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa phương, tích cực làm từ thiện, hoạt động đạo đạt nhiều kết quả tốt, tạo được niềm tin trong chức sắc, tín đồ. Chức sắc hành đạo tại Hội thánh và các ban chuyên môn được kiện toàn; thành lập 12 Ban Đại diện trên tổng số 26 tỉnh, thành phố có Cao đài Ban Chỉnh đạo; công cử chức sắc Hội thánh, Đầu họ đạo, Ban Cai quản, Ban Trị sự của 226 thánh thất với hàng ngàn chức sắc từ phẩm Lễ sanh đến Đầu sư; vận động hoàn nguyên hàng chục họ đạo; làm lễ nhập môn cho gần vạn tín đồ; xây dựng và sửa chữa hàng trăm thánh thất, Toà thánh cũng được sửa chữa khang trang; mở được nhiều lớp bồi dưỡng giáo lý hạnh đường; in tái bản một số cuốn kinh sách phục vụ nhơn sanh và 5 số tập san hành đạo; thành lập được 168 Ban Hành thiện ở các họ đạo với 144.340 hội viên, điều trị cho hơn 1 triệu lượt người với hơn trăm ngàn thang thuốc miễn phí; tổ chức nhiều cuộc lễ lớn như Lễ vía Đức Chí Tôn, Lễ kỷ niệm sinh nhật Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, ngày khai đạo Cao đài và lễ kỷ niệm 60 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm thánh thất Thủ đô Hà Nội; toàn phái có 152 đại biểu tham gia Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc các cấp.

         Hội thánh Cao đài Ban Chỉnh đạo tiếp tục khẳng định phương châm hành đạo theo đường lối của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương cho đến ngày Thành đạo và hoạt động gắn bó với dân tộc, tuân thủ các qui định của pháp luật Nhà nước, vận động chức sắc, tín đồ tích cực làm từ thiện, tham gia các phong trào ở địa phương. Chức sắc, tín đồ Cao đài Ban Chỉnh đạo đoàn kết, tin tưởng Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng liêng sẽ chứng nguyện cho lòng thành của mỗi người đạo được làm tròn Thiên chức của mình. Chức sắc lãnh đạo Hội thánh có hướng sửa đổi Hiến chương cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay nhưng vẫn đảm bảo truyền thống của đạo Cao đài. Các Ban chuyên môn ở Hội thánh được khôi phục thành Cửu viện, xin khắc dấu Thượng hội, đặt mối quan hệ đồng đạo với các Họ đạo Cao đài Ban Chỉnh đạo ở nước ngoài, những nơi có từ 50 tín đồ trở lên mà chưa có thánh thất sẽ xin chính quyền địa phương được lập Tổ nghi lễ có Ban Trị sự chăm lo việc quan - hôn - tang - tế và xây dựng một Thiên bàn làm nơi thờ tự đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhơn sanh.

 Những công việc lớn mà Hội thánh dự kiến sẽ thực hiện trong chương trình hành đạo nhiệm kỳ III là tiếp tục củng cố về tổ chức từ Hội thánh đến họ đạo cơ sở, đảm bảo cho toàn đạo sinh hoạt ổn định; liên giao hành đạo với các Hội thánh Cao đài để có thể lập trường đào tạo chức sắc, ra tạp chí Cao đài để thông tin chung về các hoạt động của đạo Cao đài; tập trung thuyết phục, vận động số họ đạo chưa hưởng ứng Hiến chương; xây dựng ngôi Toà thánh mới theo mô hình của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương đã định; tổ chức tốt các ngày lễ quan trọng và các lễ kỷ niệm như 75 năm ngày thành lập Hội thánh Cao đài Ban Chỉnh đạo, 60 năm ngày tịnh diệt của Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, 10 năm ngày mất của Đầu sư Thượng Pho Thanh, 80 năm ngày sinh của kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt…

 Đại hội thành lập Ban Chỉnh Đạo được tổ chức ngày 14-10 Giáp Tuất (20-11-1934) tại thánh thất An Hội (tỉnh Bến Tre) do Ngài Quyền Thượng Đầu Sư Nguyễn Ngọc Tương và Ngài Quyền Ngọc Đầu Sư Lê Bá Trang cùng một số Thiên Phong như Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu, v.v… cùng 85 họ đạo trong 18 tỉnh tách rời từ Tòa Thánh Tây Ninh về dự. Hết thảy được chừng 1.300 vị.Ngày 18-11 Giáp Tuất (24-12-1934), nhóm đại hội thành lập Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo, bầu Ngài Quyền Đầu Sư Ngọc Trang Thanh làm Thượng Chưởng Pháp, bầu ba vị Chánh Phối Sư Ngọc Kinh Thanh, Thượng Lai Thanh và Thái Minh Thanh phụ trách hành chánh đạo.

            Đại hội Vạn Linh từ 8 đến 11-01 Ất Hợi (11 đến 14-2-1935) có 88 họ đạo trong 20 tỉnh đến dự và bỏ thăm lập Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo, bầu Ngài Nguyễn Ngọc Tương lên ngôi Giáo Tông. Lễ đăng điện Giáo Tông được cử hành long trọng ngày 07-4 Ất Hợi (09-5-1935). Hội Thánh nhóm lần đầu tiên vào ngày 08-01 Bính Tý (31-01-1936) có 96 thánh thất (trong số 135 thánh thất) quy tụ về Ban Chỉnh Đạo.
Sau khi tổ chức xong Hội Thánh, Ban Cửu Viện, đầu họ đạo tỉnh, đầu họ đạo các thánh thất, ban cai quản, ban trị sự, ban hành thiện, các dự án thành lập nhà tu trung thừa, nhà tu thựơng thừa, Ngài Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh 120 ngày tại Thiên Lý Mật Truyền từ 07-7 Ất Hợi (05-8-1935), quyền hành chánh đạo giao cho Thượng Chưởng pháp Lê Bá Trang. Tiếp theo Ngài còn bảy lần nhập đại tịnh vào các năm 1936, 1937, 1939, 1940, 1941. Ngày 07 đến 15-01 Mậu Dần (1938) lễ thành đạo được tổ chức trọng thể. Công cuộc chỉnh đạo đã xong, cơ đạo đã qua cơn khảo đảo, Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo đổi tên là Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nhưng trên bảng hiệu các thánh thất hoặc trên giấy tờ thường dùng danh xưng là Hội Thánh dưới quyền ủng hộ của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương. Cũng trong ngày lễ nầy, Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương phong chức Thập Nhị Thời Quân ra mắt toàn đạo: Nguyễn Văn Cho (Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài), Nguyễn Ngọc Thắng (Bảo Thế), Tạ Văn Tân (Bảo Pháp), Trần Chí Thành (Hiến Thế, lúc ấy còn trẻ nên đến năm 1953 mới nhận), Phạm Hồng Tiên (Tiếp Đạo), Lê Thành Tính (Khai Thế), Phạm Văn Ngọ (Bảo Đạo).Năm 1939 xây cất nhà Thiên Lý Mật Truyền trên miếng đất trước nhà tu thượng thừa nam và nhà tịnh cho các vị thượng thừa nam sau Thiên Lý Mật Truyền. Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương cũng dời về ở nơi đây và đặt tên khu đất nầy là vườn Trước Hoa Kỳ Thọ.

Văn Phòng Giáo Tông dưới Thiên Lý Mật Truyền được thành lập do ông Châu Văn Trận làm Đầu Phòng Văn nam và bà Nguyễn Thị Thiên Hương làm Đầu Phòng Văn nữ. Ông Khai Thế Lê Thành Tính làm Tổng Lý Văn Phòng Cửu Viện. Ông Trần Chí Thành làm Phó Tổng Lý. Mỗi Viện đều có một thư ký. Ông Thái Giáp Thanh ở Tân Quý Tây được phong làm Thái Chánh Phối Sư. Ông Thượng Trò Thanh ở Tân Hương làm Thượng Chánh Phối Sư. Ông Ngọc Chung Thanh ở Sơn Đốc làm Ngọc Chánh Phối Sư. Ngày 08-01 Canh Thìn (1940), khánh thành tịnh xá cho bực thượng thừa nam, ở hiến thân làm công quả và tu tịnh. Mở cửa khai tịnh lần đầu do đích thân Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương truyền dạy.
Năm 1941 nhà tu trung thừa nữ được dời về mảnh đất rộng rải hơn gần nhà tu thượng thừa nữ và Diêu Trì Bửu Điện, nơi đây bà Chánh Phối Sư Hương An quản lý. Năm 1942, nhiều ban Minh Đạo được phái đi thăm viếng các thánh thất để chấn chỉnh sự tu hành và củng cố đức tin toàn Đạo. Ngày 15-8 Nhâm Ngọ (1942)  khánh thành nhà tu thượng thừa nữ. Sau tháng 8-1945, ông Nguyễn Khắc Bích được phong chức Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài nắm quyền vào việc Đạo. Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương thường dạy "người Đạo chỉ phải lo tu hành và cầu nguyện mà thôi, chẳng nên xu hướng vào việc quốc sự."
Năm 1948, thanh đồng Tô Văn Pho được phái đi hành đạo ở Hà Nội. 
Lần cuối Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại tịnh 9 năm 81 ngày – suốt từ ngày 21 rạng 22-02 Nhâm Tuất (giờ tý ngày 07 rạng 08-4-1942) đến giờ tý 14 rạng 15-5 Tân Mão (17 rạng 18-6-1951). Ngày 19-5 Tân Mão (22-6-1951) ba vị bác sĩ khám xét di thể Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương . Các ông tuyên bố Ngài đã quy thiên từ hai ngày trước nhưng vì tinh thần mạnh nên nhục thể chưa hoại.
Lễ đại tang kể từ ngày 24-5 Tân Mão có trên 10.000 người tham dự. Bửu tháp của Ngài được xây ở sân trước, ngay mặt tiền Tòa Thánh.
Vào năm 1965, Hội Thánh dưới sự lãnh đạo của ba vị Quyền Chưởng Pháp (Nguyễn Khắc Bích, Lê Thành Tính và Nguyễn Ngọc Thắng), ba vị Quyền Đầu Sư (Ngọc Biện Thanh, Thượng Thuộc Thanh, và Thái Chung Thanh) và ba vị Chánh Phối sư (Ngọc Núi Thanh, Thượng Khuê Thanh và Thái Hồ Thanh) và Nữ Chánh Phối Sư Hương Phụng, chủ trương xây dựng Tổ Đình. Từ việc góp tiền, chi tiền mua đất, vẽ hoạ đồ Tổ Đình, cứu trợ, v.v… lại thêm ảnh hưởng của cuộc chiến tranh chống Mỹ, làm rạn nứt Hội Thánh trong ba năm 1968, 1969, 1970, để rồi Hội Thánh phân hóa với sự ra đời của Giáo Hội Bến Tre. Ngày 28-5-1970, nghị định số 378/BNV cho phép Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ – Giáo Hội Bến Tre được sinh hoạt hành đạo theo bản điều lệ với thành phần ban sáng lập gồm có Thượng Chánh Phối Sư Đặng Văn Khuê, Thái Chánh Phối Sư Nguyễn Văn Tân, Nữ Chánh Phối Sư Lương Thị Phụng, Khai Đạo Lưu Ngọc Nữ, Nữ Phối Sư Hương Nguyệt (thứ nữ Đức Giáo Tông) và ông Thượng Nghị sĩ Nguyễn Ngọc Kỷ (trưởng nam Đức Giáo Tông). Giáo Hội Bến Tre đặt Hội Thánh tại thánh thất Đô Thành Sài Gòn dưới sự lãnh đạo của các vị: Hiến Thế Trần Chí Thành, Khai Đạo Lưu Ngọc Nữ, hai Chánh Phối Sư Thượng Khuê Thanh và Thái Tân Thanh và nữ Chánh Phối sư Hương Phụng.
Ngày 11-11 Nhâm Tý (1972) Giáo Hội Bến Tre – Hội Thánh Đô Thành ký kết thỏa ước liên giao hành đạo giữa các Hội Thánh tại thánh thất Tây Thành (Cần Thơ) quy tụ 18/20 chi phái đạo Cao Đài, bên trong có sự ngầm giúp của Mặt Trận Giải Phóng Khu Tây Nam Bộ để thành lập tổ chức liên giao 18 Hội Thánh Cao Đài.
Trong thời gian ba năm từ ngày thành lập Giáo Hội Bến Tre – Hội Thánh Đô Thành, các vị chức sắc lớn dần dần quy liễu hết 6 vị. Từ năm 1973, bộ phận Cửu Viện được tăng cường bổ sung: Tổng Lý ba viện Nội, Lễ, Hòa là Phối Sư Thái Yển Thanh; Tổng Lý ba viện Ngoại, Học, Phước là Chánh Phối Sư Thượng Biện Thanh; Tổng Lý ba viện Hộ, Công, Nông là Quyền Thái Chánh Phối Sư Thái Tá Thanh.
Sau ngày 30-4-1975, tại Tp.HCM, Giáo Hội Bến Tre – Hội Thánh Đô Thành được tiếp tục hoạt động bình thường, tổ chức học tập Nghị Quyết Trung Ương 24/TW theo hướng dẫn của Ủy Ban Mặt Trận Khu 8 và Khu 9. Hội Thánh Đô Thành ra châu tri gởi toàn Đạo tuyên bố giải thệ cho trên 10.000 thanh niên trước đây xuất gia được hoàn tục, trở về gia đình.
Tại Bến Tre, vào tháng 8-1975 chánh quyền tỉnh Bến Tre cho mời các vị chức sắc lãnh đạo Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo tại Tòa Thánh Bến Tre: Nho Chưởng Pháp Nguyễn Khắc Bích, Ngọc Chánh Phối Sư Phan Văn Đáng, Trần Văn Vững. Sau đó ba vị phải làm bản kiểm điểm.

Ngày 15-8-1975, Hội Thánh ra châu tri 901 tuyên bố giải thể cơ cấu tổ chức hành chánh đạo từ trung ương (Hội Thánh) đến cơ sở (thánh thất) trong toàn chi phái. Ở Tòa Thánh chỉ bầu ra ban quản lý từ 3 đến 5 người theo hướng dẫn của Mặt Trận Tổ Quốc, để trông coi, bảo quản cơ sở vật chất của Đạo, kể cả việc lễ bái của tín đồ. Tại thánh thất, nhà tu ở các địa phương cũng phải bầu lại một ban quản lý từ 1 đến 3 người theo sự hướng dẫn của Mặt Trận Tổ Quốc nơi đó.

Ngày 26-10-1975, tại Tòa Thánh Bến Tre có buổi học tập cho ngoài 200 người , đủ mặt chức sắc lớn nhỏ và tín đồ quanh vùng. Thi hành chỉ thị của Trung Ương, Chánh Quyền và Mặt Trận tỉnh Bến Tre đã đọc và giải thích một văn thơ của Mặt Trận tỉnh Bến Tre gởi cho toàn Đạo trong tỉnh. Đại diện chánh quyền xác nhận đạo Cao Đài Ban Chỉnh Đạo có một và một Hội Thánh, chớ không có hai…
Những năm 1983-1984, Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo – Giáo Hội Bến Tre ở Đô Thành thực hiện việc công khai hóa huân chương kháng chiến hạng nhì do Nhà Nước thưởng cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo vào năm 1954.

Cuối năm 1993 , Chánh Phối Sư Ngọc Đáng Thanh rời Bến Tre lui về nhà riêng dưỡng bệnh ở xã Mỹ Lệ.

Ngày 05-5-1994 , Ban Quản Lý Tòa Thánh Bến Tre tổ chức gặp một số chức sắc Hội Thánh Đô Thành mở đường cho tiến trình hòa hợp hoàn nguyên.

Ngày 07 và 08-6-1994 , được sự chấp thuận của tỉnh, Ban Quản Lý Tòa Thánh Bến Tre tổ chức học tập có sự hiện diện của 125 vị chức sắc có thư mời và trên 200 vị dự thính. Đa số đồng ý phục hồi toàn vẹn Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo tại thánh địa Bến Tre đúng theo chính sách của Nhà Nước và cử Ban Vận Động gồm 15 vị nam nữ thuộc cả hai Hội Thánh để chuẩn bị tiến tới Đại Hội Nhơn Sanh và Đại Hội Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo hợp nhất. Gần một tháng sau, Ban Tôn Giáo của Chánh Phủ công nhận Ban Vận Động và cho phép hoạt động từ ngày 01-7-1994.

Ban Vận động hoạt động được một thời gian nhưng số thành viên thuộc phía Tòa Thánh Bến Tre khuyết 4 vị không chịu hợp tác, nên phải bổ sung thêm 14 vị cho đủ 25 vị. Sau ba năm hoạt động tích cực với không ít khó khăn, Ban Vận Động đã hoàn thành kết quả.

Ngày 07-8-1997, Đại Hội Đại Biểu Nhơn Sanh khai mạc trọng thể tại Tòa Thánh Cao Đài Bến Tre đón tiếp 229 đại biểu từ 249 thánh thất ở 26 tỉnh, thành về dự. Đại Hội thông qua Hiến Chương, luật công cử chức sắc và chương trình hành đạo, bầu tín nhiệm 2 vị cố vấn. Ban Thường Trực Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo gồm 9 vị như sau :
Ban Cố Vấn: Ngọc Đáng Thanh, Trần Chí Thành.


Ban Thường Trực Hội Thánh: Tô Văn Pho, Trưởng Ban; Châu Văn Phon, Phó Ban 1; Trần Văn Liệp, Phó Ban 2; các thành viên là Nguyễn Thị Nguyệt, Lê Văn Sáu, Nguyễn Tấn Hưng, Võ Văn Nho, Đoàn Văn Thức và Nguyễn Văn Lãnh.

Ngày 08-8-1997 , Ban Tôn Giáo của Chánh Phủ ký quyết định số 26/QĐ/TGCP công nhận tư cách pháp nhân của Giáo Hội Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo tại Tòa Thánh Bến Tre với sự hợp nhứt hai Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo: Bến Tre và Đô Thành.
Ngày 06-10-1998 , Thượng Đầu Sư Tô Văn Pho, Trưởng Ban Thường Trực Hội Thánh quy thiên. Bửu tháp được xây tại vườn Trước Hoa Kỳ Thọ.
Ngày 05-5 Kỷ Mão (18-6-1999), Cố Vấn Ban Thường Trực Hội Thánh là Thượng Sanh Trần Chí Thành quy liễu, thọ 81 tuổi. Bửu tháp được xây tại vườn Trước Hoa Kỳ Thọ.

Ngày 08-9 Canh Thìn (05-10-2000), Phó Ban Thường Trực Hội Thánh là Chánh Phối Sư Quyền Đầu Sư Thượng Phon Thanh quy liễu lúc 2 giờ khuya. Tang lễ cử hành tại Bửu Điện từ ngày 06 đến 09-10-2000. Bửu tháp được xây tại vườn Trước Hoa Kỳ Thọ.

Tổng kết nhiệm kỳ 5 năm 1997-2002 về nhân sự, Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo đã công cử 1.403 chức sắc (28 điền khuyết), 3 đầu sư, 12 phối sư, 58 giáo sư, 155 giáo hữu, 1.247 lễ sanh; 6.972 chức việc, có thêm 3500 tín đồ nhập môn, 124 chức sắc nam nữ thọ giới thượng thừa.

Chức sắc Hiệp Thiên Đài đang hoạt động có 17.
Chức sắc Cửu Trùng Đài đang hoạt động có: lễ sanh 2.678, giáo hữu 216 (hàm phong 42), giáo sư 64 (hàm phong 33), phối sư 13 (hàm phong 5), chánh phối sư 3, đầu sư 3 với 788.000 tín đồ nam nữ.
Công cử 11 ban đại diện tỉnh, thành phố và 217 họ đạo.
Còn 52 thánh thất chưa hoàn nguyên.
Nhìn chung, Hội Thánh đã hoàn thiện tổ chức chánh thể, nhân sự được củng cố, đức tin đươc vững vàng, hành thiện được mở mang, phương tu được nâng lên, tài chánh được cân đối, lương thực có thừa là những tiền đề để Hội Thánh tiếp tục phát triển về sau.

Tòa Thánh Bến Tre dùng thánh thất An Hội Bến Tre xây cất lại năm 1935 làm Tòa Thánh. Đây là Tòa Thánh không có quả Càn Khôn nơi Bát Quái Đài. Tòa Thánh xây cất đã trên 70 năm, xưa nhứt so với tất cả các tòa thánh khác. Phía sau Tòa Thánh là Thiên Phong Đường, nơi làm việc của các chức sắc cao cấp. Đứng hàng thứ nhì về số lượng thánh sở Cao Đài, phái Bến Tre hiện có 264 thánh thất và 36 thánh thất bị hư hoại chưa cất lại. Tỉnh Bến tre là tỉnh có nhiều thánh thất Ban Chỉnh Đạo nhất (61 cái).
Thánh thất Thái Bình Thánh Địa, thường gọi là Nhà Nhóm, đây là một thánh thất đặc biệt của Ban Chỉnh Đạo, ở vị trí chỉ cách cổng số 12 Tòa Thánh Tây Ninh khoảng 200m, là thánh sở không cất hai tháp Hiệp Thiên Đài, do Đức Ngọc Lịch Nguyệt hiến đất và xây dựng, và cũng là nơi Ngài đã cùng làm việc với các Ngài Lê Bá Trang, Nguyễn Ngọc Tương. Nơi đây còn di tích bàn, ghế, tủ, hình ảnh của Ngài Lê Bá Trang để lại, và là nơi đã cất giữ 7 chiếc ngai, bộ lọng tàn và hai dàn bát bửu của Tòa Thánh Tây Ninh trong thời gian Pháp chiếm Tòa Thánh từ 1941 đến 1946.

Nét nổi bật của Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo là :

- Lập nhà tu trung thừa ở địa phương để đào luyện những ngừời có chí trở thành bậc tài đức để ra gánh vác việc phổ thông chơn đạo.
- Lập nhà tu thượng thừa dành cho các bậc chơn tu giải thoát vào học phép tịnh luyện. Giáo hữu phải về nhà tu thượng Tthừa Tòa Thánh học tịnh 36 ngày, giáo sư học tịnh 72 ngày, phối sư 108 ngày. Hàng tháng 4 ngày tịnh hội cho hàng chức sắc thượng thừa. Nam thì để râu, để tóc.
- Chủ trương không dùng cơ bút ở Hiệp Thiên Đài nên mỗi việc cần thi hành, Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương đều viết thành văn hết, chức sắc chức việc toàn phái coi đó mà thực hành từ hành lễ, giáo lý, các quy giới, nội luật thánh thất, lập họ đạo, công cử chức sắc, v.v…
- Lập phép bí tích riêng: phép đại xá, phép giải khổ.
Sau ngày lễ thành đạo, suốt năm 1938, Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương đi viếng các thánh thất và làm phép đại xá và giải khổ cho từng nơi. Sau nầy cứ ba năm đáo lệ một lần, Hội Thánh lập Cửu Trùng Thiên ở sân trước Tòa Thánh, thỉnh Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương đăng đài chứng lễ làm phép.

Share:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét